- Thông tin
Chúng ta đang sống trong thời đại mà thuật ngữ thông tin được đề cập mọi lúc, mói nơi: thông tin, một nền công nghiệp thông tin, một xã hội thông tin, thông tin là nguồn lực của sự phát triển, thông tin là lợi nhuận…
Có thể nói, Khái niệm thông tin là khái niệm cơ bản của khoa học, cũng là khái niệm trung tâm của xã hội trong kỷ nguyên số. Mọi quan hệ, mọi hoạt động của con người đều dựa trên một hình thức giao lưu thông tin nào đó. Mọi tri thức đều bắt nguồn bằng một thông tin về những điều đã diễn ra, về những cái người ta đã biết, đã nói và đã làm. Và điều đó luôn xác định bản chất và chất lượng của những mối quan hệ của con người
1.1 Khái niệm thông tin
Có rất nhiều cách hiểu về thông tin. Thậm chí ngay các từ điển cũng không thể có một định nghĩ thống nhất. Ví dụ từ điển Oxford English Dictionary thì cho rằng thông tin là điều mà người ta đánh giá hoặc nói đến; là tri thức, tin tức. Một số từ điểm thì đơn giản đồng nhất thông tin với kiến thức - Thông tin là điều mà người ta biết, hoặc thông tin là sự chuyển giao tri thức làm tăng thêm sự hiểu biết của con người,…
Nguyên nhân của sự khác nhau trong việc sử dụng thuật ngữ này chính là do thông tin không thể sờ mó được. Người ta bắt gặp thông tin chỉ trong quá trình hoạt động, thông qua các tác động trừu trượng của nó.
Trong cuốn “Bùng nổ truyền thông”[1], Từ Latin “Informatio”, gốc của từ hiện đại “Information” (thông tin) cho rằng, thuật ngữ thông tin có thể hiểu theo hai hướng nghĩa: thứ nhất, thông tin là nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình dạng; thứ hai, thông tin là nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay một biểu tượng. Hai hướng nghĩa này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức và truyền đạt. Tuy nhiên, cùng sự phát triển của xã hội, khái niệm thông tin cũng phát triển theo.
Theo nghĩa thông thường, thông tin là tất cả các sự kiện, sự việc, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thông tin hình thành trong quá trình giao tiếp: một người có thể nhận thông tin trực tiếp từ người khác thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, từ các ngân hàng dữ liệu hoặc từ tất cả các hiện tượng quan sát được trong môi trường xung quanh.
Theo quan điểm triết học, thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã hội (thế giới vật chất) bằng ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh…hay nói rộng hơn bằng tất cả các phương tiện tác động lên giác quan của con người,
Khi khoa học công nghệ phát triển đến trình độ cao, trong các lĩnh vực khoa học khác nhau, thuật ngữ thông tin cũng có những cách hiểu khác nhau khi sử dụng đến nó.[2]
Trong lĩnh vực viễn thông, thông tin là toàn bộ hoạt động nhằm mục đích vận chuyển, đảm bảo tính chính xác của các thông điệp.
Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng, thông tin hoạt động chủ yếu dựa trên nội dung của các thông điệp, nhất là khi tiếp xúc với công chúng.
Trong lĩnh vực báo chí, thông tin được dùng để nói đến chất liệu ngôn ngữ sống, sự miêu tả câu chuyện, bằng chúng, chỉ cần nó thể hiện một nhân tố của thực tại. Ví dụ khi ta sử dụng thông tin để nói về câu chuyện do nhà báo kể lại bao gồm một hoặc một số sự kiện liên kết thành.
Những người hoạt động trong lĩnh vực truyền thông đại chúng như: phóng viên, biên tập viên, nhà báo…là những người được đào tạo chủ yếu về lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Những vấn đề liên quan đến con người luôn là nguồn cảm hứng chính trong các hoạt động thông tin của họ. Với họ, thông tin là mục tiêu để họ sáng tạo không ngừng.
Như vậy, cùng sử dụng thuật ngữ thông tin, nhưng khái niệm thông tin mà các nhà báo sử dụng hoàn toàn khác với những khái niệm thông tin mà các nhà kỹ thuật viễn thông xử lý hoặc thông tin mà các nhà tin học chế tạo. Để có cái nhìn phù hợp với định hướng, trong nghiên cứu này, chúng ta đi sâu vào phân tích thuật ngữ thông tin trong báo chí.
1.2 Thông tin trong báo chí
Quan điểm đi vào cụ thể của thông tin trong báo chí, trong cuốn “Cơ sở lý luận của báo chí”[3] của E.P. Prôkhôrốp lại cho rằng, thông tin trong báo chí từ lâu thường được dùng trong ba nghĩa có quan hệ mật thiết với nhau: Đó là các thông báo ngắn không bình chú về các tin tức nói hổi của đời sống trong nước và quốc tế; Là danh mục nhóm các thể loại tin tức (các loại hình thông tin: tin ngắn, báo cáo, tường thuật, phỏng vấn); cuối cùng thông tin đôi khi được hiểu là thể loại tin ngắn.
Định nghĩa trên của E.P.Prôkhôrốp dường như hơi bó hẹp về thông tin trong báo chí. Bởi vì nếu hiểu theo định nghĩa trên thì cảm tưởng như một số các tư liệu của một số bài báo hay một số chương trình sẽ không phải là thông tin như phóng sự, điều tra, phim tài liệu…
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”[4] cho rằng thông tin trong báo chí đang tồn tại hai cách hiểu: Một là, tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc sống. Hai là, sự loan báo cho mọi người biết.
Theo cách hiểu đầu tiên, thông tin thể hiện tính chất khởi đầu, khởi điểm (tương tự với khái niệm hình tượng trong nghệ thuật, hàng hóa trong kinh tế…). Đây là đặc trưng cơ bản của báo chí nói chung.
Còn theo cách hiểu thứ hai, là sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện có để truyền đạt kết quả sáng tạo của nhà báo ra thế giới xung quanh. Như vậy, thông tin cũng chính là chức năng của báo chí (theo nghĩa là sử dụng phương tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo).
Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực hiện mục đích của mình. Thông tin trở thành cầu nối giữa báo chí và công chúng. Nó là dụng cụ làm việc của nhà báo, với sự giúp đỡ của dụng cụ đó, những công việc đa dạng và quan trọng được thực hiện.
Trong thực tiễn báo chí hiện nay, khi đề cập tới thuật ngữ thông tin, các nhà báo cũng có nhiều cách sử dụng khác nhau. Có trường hợp, các nhà báo sử dụng nó để biểu thị tính chung nhất của các thông báo ngắn, không kèm theo lời phân tích, bình luận về một sự kiện mới (như tin vắn, tin ngắn). Trong trường hợp khác, nó được dùng để chỉ tất cả các thể loại được dùng để ghi chép những sự kiện, hiện tượng mới như: tin tức, tường thuật, phỏng vấn…
Nhiều khi một tin ngắn cũng được coi là thông tin (Ví dụ: tôi vừa nhận được một thông tin quan trọng). Đây là cách hiểu theo nghĩa hẹp, vì thông tin trên báo chí chỉ là một phần nhỏ của tất các tư liệu được công bố đến công chúng (vì một tờ báo, một chương trình không thể nói hết được tất cả các thông tin, họ chỉ chọn lựa những thông tin tác động đến số đông hoặc số đông cần).
Tất cả các tác phẩm báo chí (tin vắn, phim tài liệu, phóng sự…) đều chứa đựng trong mình một hàm lượng thông tin nhất định. Mặc khác, các tiêu đề cũng hàm chứa các giá trị thông tin: vị trí của tác phẩm trên trang báo, chương trình truyền hình, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ báo… dường như chúng đều có chứa đựng thông tin. Nghĩa là chúng đều có tác dụng làm cho sản phẩm hấp dẫn hơn nhưng vẫn giữa được nguyên phần tư liệu của nó. (Ví dụ cỡ chữ của một bài báo có tác dụng nhấn mạnh tầm quan trọng của thông tin chứa đựng trong bài báo đó).
Thuật ngữ thông tin còn có những cách hiểu rộng hơn. Để hiểu thuật ngữ này một cách đầy đủ, đòi hỏi phải xem xét từng ứng dụng riêng biệt. Chúng ta vẫn có thể gọi toàn bộ các tác phẩm, hay hệ thống tin tức… là thông tin. Hiểu theo các gọi này, thuật ngữ thông tin là một danh từ tập hợp.
Đôi khi, công chúng tiếp cận với các sản phẩm báo chí mà không thu nhận được điều gì mới mẻ, họ sẽ nói “tác phẩn nghèo thông tin” thậm chí là “không có thông tin”. Điều này dường như vô lý với khái niệm chúng ta đã đề cập ở trên. Nhiệm vụ của các tác phẩm báo chí là đem đến thông tin cho công chúng, nhưng tại sao họ lại không tìm thấy chúng trong các tác phẩm? Dường như thông tin trong các tác phẩm báo chí này không phản sánh được thực tế cuộc sống, không thỏa mãn nhu cầu của công chúng.
Nhận thức về thông tin phát triển song song với nhận thức về chức năng, đối tượng phản ánh của báo chí. Muốn có sự nhận thức đúng đắn về thông tin, cần xác định được mục đích hoạt động của báo chí, đồng thời phải nêu lên định hướng có tính nguyên tắc cho những hoạt động thực tiễn của một nền báo chí. Sự định hướng rõ ràng sẽ trang bị cho nhà báo phương pháp thông tin và biết cách vận dụng thông tin có hiệu quả để thực hiện chức năng của báo chí.
Một hướng quan trọng trong cách tiếp cận thông tin báo chí là mỗi một tác phẩm, mỗi một chương trình cần phải được xem xét kỹ lưỡng trong hệ thống những mối quan hệ giữa báo chí và công chúng. Tác phẩm báo chí là điểm trung gian của hệ thống nhà báo - tác phẩm - công chúng.
Tác phẩm khi đưa lên báo chí, đối với công chúng, tác phẩm đó mới chỉ thể hiện qua chất lượng của thông tin tiềm năng. Bởi vì những thông tin đó chưa chắc đã được công chúng tiếp nhận. Có nhiều tác phẩm báo chí không thể đến được với công chúng, có thể do kỹ thuật, do công chúng không có thời gian, hay cũng có thể do bản thân các tác phẩm đó không hấp dẫn. Điều này dẫn đến tình trạng thông tin tiềm năng không chuyển thành thông tin hiện thực.
Thông tin hiện thực là những thông tin được nhà báo sáng tạo và được công chúng tiếp nhận qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc có thể họ là người nhận thứ hai (nghe người đã từng đọc, từng xem qua kể lại). Việc đảm bảo sự ổn định trong mối quan hệ lẫn nhau giữa nhà báo và công chúng được thể hiện qua các tác phẩm và chương trình là cần thiết, đảm bảo cho thông tin tiềm năng trở thành thông tin hiện thực. Vì thế, trong khoa học hiện đại có một các định nghĩa về thông tin: Thông tin không chỉ là tác phẩm báo chí mà là những tác phẩm báo chí khi đã được công chúng tiếp nhận.
Trong hoạt động báo chí, khi tìm hiểu về khái niệm thông tin cần đặt nó trong mối liên hệ trực tiếp với vấn đề hiệu quả, tức là ảnh hưởng trực tiếp của thông tin đối với công chúng, hướng dẫn nhận thức và giáo dục đạo đức cho họ để họ có hành động đúng đắn. Vì vậy, chúng ta cũng có thể đồng tình với khái niệm về định nghĩa thông tin: Thông tin là phần tri thức được sử dụng để định hướng, tác động đến những hành động tích cục và quả lý xã hội, thực hiện mục đích giữ gìn những đặc điểm phẩm chất, sự hoàn thiện và phát triển hệ thống.[5]
Ở dạng hoàn chỉnh, khái niệm thông tin chứa đựng nội dung rất phong phú, nó có quan hệ trực tiếp đến chứ năng và hiệu quả của công tác báo chí, đến nguyên tắc cung cấp thông tin, đến những yêu cầu nghiệp vụ báo chí và những nguyên tắc tác động lẫn nhau của các mặt nói trên. Khái niệm thông tin là nền tảng của công tác báo chí, cho nên khi nghiên cứu lý luận báo chí, nhà nghiên cứu luôn chú ý đến ý nghĩa của thuật ngữ này.
- Hiệu quả
2.1 Khái niệm hiệu quả
Hiệu quả là gì? Thuật ngữ này cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tài liệu và nhiều lĩnh vực định nghĩa. Cụ thể:
Cuốn điển tiếng pháp Lepetit Lasousse định nghĩa, hiệu quả là kết quả đạt được trong việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định[6]. Còn từ điển Bách khoa Tiếng Việt lại định nghĩa, hiệu quả là kết quả đạt được giống nhau nhưng sử dụng ít thời gian, công sức và nguồn lực nhất.
Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, các nhà ngôn ngữ học định nghĩa khái niệm hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại. Trong khi đó, ở lĩnh vực quản lý hành chính, các nhà quản lý hành chính lại cho rằng, hiệu quả là mục tiêu chủ yếu của khoa học hành chính, là sự so sánh giữa các chi phí đầu tư với các giá trị của đầu ra, sự tăng đối đa lợi nhuận và tối thiểu chi phí, là mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu ra - đầu vào.
Tác giả Phạm Quang Sáng[7] trong nghiên cứu của mình định nghĩa, hiệu quả là phép so sánh dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu, hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định.
Trong lĩnh vực kinh tế, xác định hiệu quả thường gắn với một hoạt động kinh tế cụ thể và thường cho chúng ta những con số chính xác và cụ thể. Còn đối với các hoạt động xã hội nói chung, hiệu quả thông tin báo chí nói riêng, để tính được hiệu quả đạt được như thế nào sẽ rất khó khăn và phức tạp. Bởi đây là hoạt động mang tính chất định tính nhiều hơn định lượng.
Như vậy, thuật ngữ hiệu quả tương đối phong phú về khái niệm, để tối ưu hóa cách hiểu về khái niệm này, chúng ta nên gắn khái niệm với một nội dung, bối cảnh cụ thể để phân tích.
2.2 Hiệu quả thông tin
Để xác định hiệu quả thông tin, đầu tiên chúng ta cần phải đánh giá được mục tiêu của truyền đạt thông tin, đó là quá trình nhằm cho khách thể: nghe, thấy, hiểu, đồng ý, hành động và phản hồi thông tin.
Việc phản hồi thông tin giúp cho chủ thể biết người tiếp nhận đã: Đã nghe đúng hay chưa? Đã hiểu đúng hay hiểu lầm và hiểu bao nhiêu? Có đồng ý không và trong phạm vi nào? Và dự định hành động, hành động hay không hành động?
Như vậy, hiệu quả thông tin có thể được xác định là:
a, Hiệu quả thông tin là kết quả thông tin đạt được theo yêu cầu trong một khoảng không gian, thời gian, công sức và nguồn lực cụ thể.
b, Hiệu quả thông tin là phép so sánh dành để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu, hoạt động của chủ thể cung cấp thông tin và khách thể tiếp nhận thông tin và chi phí mà họ bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định.
Theo cách định nghĩa này thì hiệu quả thông tin được hiểu gồm đầy đủ các khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, là phép so sánh chỉ mối quan hệ trước - sau, cao - thấp, nhiều - ít giữa kết quả đạt được của quá trình thông tin (đầu ra) và chi phí về mặt thời gian, công sức và nguồn lực (đầu vào). Như vậy, thương số giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” càng lớn thì hiệu quả càng cao.
Cụ thể, coi việc cung cấp thông tin cho công chúng là hoạt động thường xuyên, nhưng nếu công chúng tiếp cận, sau đó nhận thức, hiểu và thay đổi hành vi theo các mục đích của thông tin thì quá trình thông tin đó đã đạt được hiệu quả nhất định.
Thứ hai, là kết quả thực hiện các mục tiêu, hoạt động mà chủ thể cung cấp thông tin đưa đến khách thể tiếp nhận thông tin trong một khoảng không gian và thời gian nhất định.
Ví dụ để đáp ứng nhu cầu phát triển hợp tác sâu rộng trong tương lai, lãnh đạo Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) đưa ra quyết định tăng cường cung cấp các thông tin về lĩnh vực kinh tế của các nước trong khu vực này lên trên trang báo của mình. Công chúng Việt Nam có thêm một kênh quan trọng để tiếp cận các thông tin hữu ích từ TTXVN. Từ đó góp phần trong việc hình thành các hiểu biết, nhận thức và có thể là những ý tưởng phát triển để kinh doanh và hội nhập sâu rộng hơn với các nước trong khu vực ASEAN.
Thứ ba, là chi phí bỏ ra để thực hiện các kết quả đó. Đó có thể là nguồn tài chính để truyền thông tin, nguồn nhân lực phóng viên, biên tập viên để tạo và cung cấp thông tin, hệ thống các tranh thiết bị kỹ thuật tác nghiệp để tạo ra những hiệu quả thông tin đến công chúng.
Dưới góc nhìn kinh tế học, thông tin là những hàng hóa đặc biệt. Để tạo ra những hàng hóa đó, cũng sẽ tốn những tri phí cho khoa học kỹ thuật, công nghệ và nhân lực con người.
Cuối cùng là điều kiện thực hiện quá trình thông tin và các nguồn lực hiện có. Đó là những yếu tố có tính chất ảnh hưởng đến quá trình thông tin như: năng lực tiếp cận thông tin của công chúng tiếp nhận, năng lực chuyên môn của người (nguồn) cung cấp thông tin, nền tảng mối quan hệ giữa người (nguồn) cung cấp thông tin với công chúng tiếp nhận, môi trường tiếp nhận, cơ sở vật chất kỹ thuật, yếu tố văn hóa xã hội…
- Những yếu tố quyết định hiệu quả thông tin
3.1 Tiếp cận từ góc nhìn mô hình truyền thông tin
Để tổ chức hoạt động truyền thông có hiệu quả, cần phải hiểu mô hình của thông tin hoạt động như thế nào, nắm được các yếu tổ cơ bản và mối quan hệ thông tin của chúng.
Sơ đồ các phần tử của quá trình truyền thông
Mô hình truyền thông tin trên gồm 9 phần tử. Hai phần tử thể hiện các bên chủ yếu tham gia truyền thông là chủ thể (người gửi) và người nhận. Hai phần tử khác đại diện cho các công cụ truyền thông là thông điệp và phương tiện truyền thông. Bốn yếu tố khác tiêu biểu cho các chức năng truyền thông thông tin là mã hóa, giải mã, phản ứng đáp lại và phản hồi. Phần tử cuối cùng là hệ thống nhiễu.
Để thông tin có hiệu quả, mô hình truyền thông nhấn mạnh những yếu tố then chốt trong hệ thống truyền thông. Chủ thể phải biết mình thông tin đến công chúng nào và muốn có phản ứng đáp lại như thế nào. Họ mã hóa thông điệp theo cách có tính đến quá trình giải mã thông điệp thông thường của công chúng mục tiêu. Họ phải tạo ra những kênh liên hệ để có thể biết được phản ứng đáp lại của người nhận với thông điệp đó.
Để đảm bảo thông điệp có hiệu quả, quá trình mã hóa của người gửi (chủ thể thông tin) phải ăn khớp với quá trình giải mã của người nhận. Thông điệp về cơ bản phải là những tín hiệu quen thuộc đối với người nhận thì thông điệp càng có hiệu quả. Điều này đặt ta vấn đề cần giải quyết cho những người truyền đạt thông tin từ một tầng lớp xã hội muốn truyền đạt có hiệu quả đến một tầng lớp xã hội khác.
Nhiệm vụ của người gửi là đưa được thông tin của mình đến người nhận trong môi trường có rất nhiều nhiễu, vì người ta bị tác động của hàng trăm các thông điệp khác mỗi ngày. Do đó người truyền thông phải tạo ra các thông điệp làm sao để thu hút được sự chú ý của công chúng mặc dù xung quanh có nhiều tác nhân phân tán.
3.2 Tác động của số lượng và chất lượng thông tin
Mỗi thông điệp truyền thông hoàn chỉnh, được phát qua kênh truyền, đến người nhận là một quá trình chuyển từ thông tin tiềm năng sang thông tin hiện thực. Vì thế , hiệu quả của hoạt động thông tin cũng cần được xem xét từ quan điểm thông tin, thể hiện mối quan hệ giữa thông tin tiềm năng và thông tin hiện thực. Công chúng tiếp nhận thông tin (về số lượng và chất lượng) thông qua việc tiếp xúc với các tác phẩm (thông tin tiềm năng) thường trải qua hai bước
Bước một: lựa chọn trong tác phẩm những gì thỏa mãn nhu cầu của họ. Ví dụ một bài báo có chứa đựng 100 đơn vị thông tin tiềm năng (có thể coi một đơn vị thông tin là một ý trọn vẹn trong tác phẩm), nhưng người đọc chỉ tiếp nhận được 20 đơn vị (thông tin hiện thực). Như vậy số lượng thông tin tiềm năng trở thành thông tin hiện thực là 20%. Có thể biểu thị về số lượng của sự tiếp nhận đó thông qua mối quan hệ giữa thông tin hiện thực và thông tin tiềm năng như sau:
I (số lượng) = i (hiện thực)/ i(tiềm năng) x 100%)
(I = Information - thông tin)[8]
Bước hai: là việc xử lý thông tin hiện thực, do ảnh hưởng của thông tin hiện thực vừa được tiếp nhận đã làm thay đổi nhận thức tính cách của quần chúng. Thông tin mới đã tác động làm hình thành các khái niệm, quan điểm, mục đích… bằng những cách khác nhau như hệ thống hóa, phát triển, làm sâu sắc hơn, điều chỉnh hay phá vỡ đi, làm giảm giá trị đi… Sự thay đổi này không do số lượng mà do chất lượng thông tin được tiếp nhận. Tính chất của những thông tin dạng này phản ánh chức năng của nó. Có thể biểu hiện theo công thức
I (chất lượng) = F (thông tin hiện thực)
(F = Feasibility - tính khả thi, tính thực tiễn)
Mức độ chất lượng của thông tin không phụ thuộc vào khối lượng được tiếp nhận mà phụ thuộc vào ý nghĩa, giá trị và ảnh hưởng của nó đối với công chúng.
Những công thức trên không phải dùng để kiểm kê số lượng thông tin của tác phẩm, mà nó phản ánh chính xác chất lượng của thông tin, điều này có tác động đến hiệu quả của thông tin.[7]
Từ các công thức trên chỉ ra một điều, để có thể tạo ra hiệu quả thông tin, chúng ta cần chú trọng cùng một lúc cả hai yếu tố số lượng và chất lượng và đảm bảo tính cân đối của cả hai yếu tố này.
3.3 Thực hiện các mục tiêu đáp ứng nhu cầu của công chúng về thông tin, có tính đến khả năng của chủ thể sáng tạo (tác giả) và công chúng tiếp nhận
Tính hiệu quả còn phụ thuộc vào những phẩm chất cụ thể của các tác phẩm được quy định bởi tài khéo léo vận dụng của chủ thể tạo ra nó (công nghệ, thủ pháp, nghệ thuật hoặc tài năng vốn có). Sự khéo léo ấy lại phụ thuộc vào việc tác giả nắm vững các phương pháp hoạt động của thông tin. Chuỗi mắt xích ấy (phương pháp - sự khéo léo - chất lượng - tính hiệu quả) mang chung khái niệm bao quát là tính hiệu quả của thông tin.
Do vậy, mọi yếu tố đều phục vụ ý đồ đạt cho được kết quả cuối cùng đang tìm kiếm của công chúng. Vậy nên, tất cả những yếu tố trong hoạt động của tác giả, mọi thành tố của hình thức và nội dung tác phẩm của tác giả phải định hướng vào một đối tượng công chúng cụ thể.
Điều hiển nhiên là để tổ chức một cách có hiệu quả hoạt động của mình, chúng ta cần hiểu biết về công chúng của mình và phải biết sử dụng kiến thức đó vào trong công việc sáng tạo và cung cấp thông tin. Ở đây, tính chất của mối quan hệ lẫn nhau giữa người sáng tạo, cung cấp và thông tin là nhất thiết phải có.
Công chúng tiếp nhận thông tin có thể phân biệt thành nhiều dạng:
- Công chúng tiêu thụ - đó là bộ phận tích cực, độc lập hình thành thái độ của mình với thông tin. Công chúng trở thành thính giả, độc giả, khán giả do ý chí của riêng họ, độc lập lựa chọn những nguồn thông tin nào đó có thể tiếp xúc thường xuyên hoặc ngẫu nhiên. Họ sẽ lựa chọn một nguồn thông tin nào đó khi mà họ cảm nhận được rằng nguồn thông tin đó đem đến cho họ những giá trị ý nghĩa về phương diện chủ quan và thỏa mãn nhu cầu của họ.
- Công chúng tương tác - đó là một bộ phận có những biểu hiện tích cực trong mối quan hệ ngược chiều (thông báo, phản hồi với những nguồn tạo ra hoặc cung cấp thông tin cho họ những lời nhận xét, đề nghị, nguyện vọng, tư vấn, khuyến cáo…)
- Công chúng tạo ra thông tin - họ trở thành những nguồn tạo ra hoặc cung cấp thông tin cho chính cơ sở cung cấp thông tin cho họ hoặc những nguồn cung cấp thông tin khác có liên quan.
- Công chúng dự tính: nhóm đối tượng được chủ thể thông tin đặc biệt hướng tới. Trong các chính sách thông tin, họ luôn muốn nhóm công chúng đó thành công chúng của mình và đưa ra nhiều chính sách thông tin để thực hiện mục tiêu đó.
- Công chúng tiềm năng: nhóm công chúng chưa tham gia vào quá trình tiếp nhận thông tin, nhưng có khả năng tiếp cận thông tin trong tương lai. Để biến nhóm công chúng này thành nhóm công chúng tiêu thụ, nhóm công chúng tương tác… thì phương hướng và chính sách thông tin phải trải qua những thay đổi căn bản
- Ngoài ra còn nguồn công chúng thứ cấp - nguồn công chúng tiếp nhận các thông tin thông qua một nhóm đối tượng công chúng đầu tiên (nhóm được trực tiếp tiếp nhận thông tin từ nguồn cung cấp).
Từ những nhóm công chúng đó, chủ thể cung cấp thông tin cần tìm ra những phương pháp để truyền tải thông tin phù hợp với các nhu cầu và đồng thời cũng làm xuất hiện ở công chúng sự quan tâm tích cực và làm sao để thông tin ấy được công chúng chủ động tìm kiếm và khai thác.
Chủ thể cung cấp thông tin cần có sự quan tâm sống động đến công chúng, sự tin cậy ngày càng được củng cố từ công chúng. Do đó, sự bất bình của công chúng, những lời than vãn về việc công chúng không quan tâm, không hiểu, không chú ý, trước hết phải dành cho chính chủ thể cung cấp thông tin: vì chính họ đã không biết cách thiết lập mối quan hệ với công chúng.
Còn công chúng, với tư cách là người sử dụng sản phẩm thông tin thì chẳng có lỗi gì cả: cần thiết lập quan hệ với công chúng như nó vốn như thế. Nhưng đồng thời cũng không được để công chúng dẫn dắt và không được hành động theo nguyên tắc “hãy cung cấp cho công chúng tất cả những gì họ muốn”.
- Một số nhân tố để tăng tính hiệu quả thông tin
Để tăng tính hiệu quả thông tin, bên cạnh việc hiểu biết công chúng, chúng ta cũng cần biết những cách hành động sao cho đạt được thành công đối với công chúng ấy trong cách thông tin.
Chúng ta sẽ thấy có một nghịch lý nào đó: một mặt cần phải đi theo công chúng (thỏa mãn những lợi ích của họ), mặt khác lại phải thường xuyên đi trước công chúng (thúc đẩy bước tiến của họ theo hướng phù hợp với nhu cầu). Đó là con đường khó khăn nhưng duy nhất có thể thực hiện được và thực sự có hiệu quả.
Điều này đòi hỏi áp dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với các nhóm công chúng khác nhau, phải biết ứng xử với công chúng trên cơ sở dựa trên những lợi ích và nhu cầu của họ
Lưu ý đến quy luật của sự chú ý và sự ghi nhớ
Để tối ưu hóa việc tiếp nhận thông tin, chúng ta cũng cần tính đến những quy luật của sự chú ý và sự ghi nhớ. Việc khai thác thông tin sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu thông tin ấy được xuất hiện phù hợp với quy tắc đi từ sự việc đáng chú ý đến kết luận chủ yếu, đi từ cái giật gân đến cái hợp quy luật, từ hiện tượng đến bản chất…
Đồng thời cần làm cho công chúng xem tác giả là đại điện của chính mình và cảm thấy thú vị và bổ ích khi tiếp xúc với tác giả. Ví dụ nếu tổng thể đầu đề đa cung cấp được thông tin quan trọng nhất đối với công chúng thì phần nội dung tiếp theo sẽ là phần triển khai chi tiết.
Xây dựng thuộc tính gần gũi
Thuộc tính này thể hiện ra trong các tác phẩm như là mối liên hệ trực tiếp với những vấn đề, những sự kiện, những cá nhân… khiến công chúng quan tâm và có những đòi hỏi trước những lợi ích bức thiết, những vấn đề nổi cộm liên quan đến các lĩnh vực khác nhau (kinh tế, chính trị, xã hội, vật chất và tinh thần…) và những phạm vi biểu hiện (trong lao động, trong đời sống xã hội trong sinh hoạt, nghỉ ngơi…). Chỉ khi nào chúng ta hiểu biết công chúng thì chúng ta mới có thể quyết định xem trên cơ sở nào có thể xích gần lại với công chúng, làm thế nào để tạo lập trường chung để nói chuyện, vì bước đầu tiên nhất trên con đường đó là luôn luôn tìm kiếm các điểm tiếp xúc.
Những điểm tiếp xúc này có thể là những điểm nhỏ, mang tính chất đời thường với phạm vi hẹp (các dịch vụ sinh hoạt, các dịch vụ giao thông vận tải…) hay cũng có thể có quy mô và đụng chạm đến những vấn đề mang tính toàn cầu của nhân loại. Trong mọi trường hợp, chúng ta cần thường xuyên ủng hộ những lợi ích của công chúng, có thể và cần sử dụng những lợi ích ấy để thiết lập quan hệ.
Một thông tin đáp ứng các đòi hỏi về tính gần gũi có thể có ý nghĩa chung đối với nhiều công chúng, nhưng cần tìm kiếm những điểm tiếp xúc với các nhóm công chúng khác nhau. Chính điều đó là lý do khiến cho các ấn phẩm và các chương trình khác nhau có các sắc thái khác nhau, khiến những tác phẩm thông tin hướng đến các nhóm đối tượng cụ thể có thể tồn tại và phát triển mạnh mẽ.
Ví dụ để cùng đến với nhận thức về vấn đề hội nhập toàn cầu thì phải dẫn dắt đồng bào dân tộc đi theo con đường này, với người dân ở nông thôn phải bằng con đường khác, còn đối với người dân thành thị lại phải là con đường khác. Như vậy, cách tiếp cận khác nhau đối với cùng một vấn đề cùng là điều cần thiết giống như cách tiếp cận duy nhất để tiếp cận các các nhóm công chúng khác nhau.
Vậy là để biết cách tiếp cận công chúng cần phải có tư liệu sống là điều có ý nghĩa quan trọng đối với công chúng, rồi dựa trên những tư liệu hấp dẫn khác nhau mà đưa công chúng xích gần với nguồn tư liệu sống quan trọng ấy đối với công chúng mặc dù chúng không thuộc phạm vi những lợi ích trực tiếp của họ.
Xây dựng các tình huống
Tính tình huống được biểu hiện ở quá trình đưa ra các suy xét, luận cứ, kết luậnn của tác giả thường xuyên xoay quanh những tình huống cụ thể của cuộc sống. Trong mỗi tác phẩm, thuộc tính đó biểu hiện ra một cách khác nhau: ví dụ bài phóng sự về một sự kiện có tính chất riêng lẻ sẽ khác với bài phóng sự về một vấn đề vĩ mô của đất nước. Vì trong vấn đề vĩ mô này, việc đưa ra những tình huống chỉ là những góc nhìn nhỏ, mang tính điển hình biểu trưng của luận cứ, luận điểm, khác với sự kiện đơn lẻ, rõ ràng trong từng chi tiết nhỏ. Tất nhiên, trong quá trình cung cấp thông tin, chúng ta đều cần hình dung trước trong đầu những tình huống cụ thể, sau đó sớm có những suy nghĩ dựa trên những tình huống cụ thể đó của cuộc sống hoặc nó được rút ra từ cuộc sống.
Chúng ta tái hiện lại các hiện tượng của thực tại qua những biểu hiện bề ngoài và cả những mối liên hệ nội tại của những biểu hiện ấy, làm rõ nội dung và ý nghĩa của chúng trong tiến trình giới thiệu, phân tích trước công chúng, tựa hồ như thu hút công chúng vào việc tìm kiếm chân lý. Khi đó những lý lẽ và những kết luận của chúng ta trở nên có cơ sở dựa trên nền tảng vững chắc của cuộc sống.
Thậm chí trong trường hợp chúng ta không hướng vào công luận, mà chẳng hạn, hướng vào thế giới quan hoặc ý thức lịch sử, thì điều quan trọng là mối liên hệ với thời hiện tại: gắn với những sự kiện thường nhật hoặc, rút ra những bài học cho thời đại ngày nay, cung cấp những lời giải đáp căn bản (thuộc lĩnh vực triết học, luật phát, đạo đức học…) đối với các vấn đề nóng hổi hiện tại.
Xây dựng kịch tính
Không một hiện tượng nào của cuộc sống lại không có những xung đột (từ những bất đồng nhỏ đến những cuộc đấu tranh gay gắt), thông qua những va chạm người ta thấy diễn ra quá trình trình bày và phát triển của xã hội.
Thông qua việc vạch rõ, chỉ ra và phân tích thực chất của những xung đột, thể hiện kịch tính của những gì đang diễn ra, chúng ta thu hút một cách có hiệu quả công chúng vào việc theo dõi đày cảm xúc sự diễn biến và kết cục của tình huống xung đột.
Thúc đẩy kịch tính trong việc tìm kiếm chân lý: Chỉ rõ những sự phiêu lưu trong suy nghĩ của chúng ta trong tiến trình tìm lời giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, trong quá trình suy ngẫm, kể cả những suy ngẫm về những tình huống xung đột. Tiến trình điều tra thông tin đã làm gia tăng sự chú ý của công chúng. Điều đó khó có thể đạt được trong trường hợp thể hiện một cách đơn giản các kết luận đã được đưa ra, căn cứ theo các kết quả phân tích trong đầu, buộc người ta phải theo dõi dự phát triển của tư duy, thẩm tra tính chất đúng đắn của các lý lẽ và luận cứ của chúng ta. Chính tính kịch trong thông tin đã giúp hình thành thái độ tích cực của công chúng với cái được điều tra, việc họ cảm thụ thông tin cũng đầy đủ hơn và vững chắc hơn.
Xây dựng tính kịch qua con đường của hình thức giao tiếp đối thoại tích cực với công chúng, trò chuyện cởi mở với công chúng. Trường hợp trực tiếp hướng đến công chúng, chúng ta có thể sử dụng các loại hình hùng biện (các câu hỏi được đưa ra tựa hồ như nhân danh công chúng).
Tổ chức đối thoại với công chúng là hết sức quan trọng, nó có sứ mạng giao tiếp với công chúng, lưu ý đến tính chất và trạng thái của ý thức quần chúng. Việc tìm hiểu ý thức quần chúng giúp người ta thấy rõ trong ý thức ấy có cái gì đúng, cái gì không đúng, cái gì tồn tại dưới hình thức câu trả lời hoặc vấn đề được nêu ra, còn thiếu vắng điều gì trong những cái cần thiết.
Do đó, trong tiến trình đối thoại với công chúng, nhu cầu thông tin được bộc lộ ra như là sự cần thiết phải phát triển, bổ sung, làm sâu sắc thêm những quan điệm đúng đắn, đấu tranh, lấn át, tranh luận với những quan điểm không đúng, trả lời những câu hỏi quan trọng đối với công chúng…Vậy là hình thức đối thoại không manh tính chất hình thức, mà có nội dung sâu sắc, nó giúp giải quyết các vấn đề quan trọng về nguyên tắc của thông tin.
Xây dựng tính kịch trong việc đối thoại với người phản biện trước mắt công chúng. Cuộc tranh luận này sẽ làm gia tăng rất mạnh sự chú ý và ý muốn của công chúng muốn biết rõ xem cái gì đã xảy ra, điều gì đang được tranh luận, khiên nó giúp cho việc nâng cao tính hiệu quả của thôn tin đến với công chúng.
Như vậy, gia tăng hiệu quả thông tin cần chú ý đến nhiều biện pháp khác nhau. Nếu chúng ta hiểu rõ và kết hợp các biện pháp hợp lý thì kết quả và hiệu quả của thông tin đến với công chúng càng cao.
Tài liệu tham khảo
- Afanaxiep, “Thông tin xã hội và định hướng xã hội”, Nxb Matxcova, Năm 1975.
- E.P. Prôkhôrốp, “Cơ sở lý luận báo chí “, Nxb Thông tấn, năm 2004.
- Trung tâm hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ (CEPEW), “Giới thiệu về quyền tiếp cận thông tin”, Nxb Hồng Đức, năm 2015
- Từ điển Bách khoa Tiếng Việt
- Từ điển Lepetit Lasousse, Paris, năm 1999
- TS. Phạm Quang Sáng, “Thực trạng giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21”, chuyên đề “Một số vấn đề cơ bản về phát triển con người Việt Nam giai đoạn 2011-2020″ của Viện Nghiên cứu con người.
- Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”, Nxb. ĐHQGHN, năm 2005.
[1] Philipe Breton, Serge Proulx, “Bùng nổ truyền thông”, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1996.
[2] Thông tin trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật được dùng để chỉ hình thức vật chất của thông tin mà nó chuyên chở (dùng chỉ đơn vị cơ bản trong hệ thống số nhị phân (bit) chứa đựng trong dòng điện của máy điện toán trước khi nó được chiếu vào một mạng dữ kiện)
[3] E.P. Prôkhôrốp, “Cơ sở lý luận báo chí “, Nxb Thông tấn, năm 2004, Tập 1 - Tr25,26.
[4] Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”, Nxb. ĐHQGHN, năm 2005, Tr55.
[5] Afanaxiep, “Thông tin xã hội và định hướng xã hội”, Nxb Matxcova, Năm 1975, Tr33.
[6] Từ điển Lepetit Lasousse, Paris, năm 199, Tr57.
[7] TS. Phạm Quang Sáng, “Thực trạng giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21”, chuyên đề “Một số vấn đề cơ bản về phát triển con người Việt Nam giai đoạn 2011-2020” của Viện Nghiên cứu con người.
[8] Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”, Nxb ĐHQGHN, năm 2005, Tr63
Nguyễn Đình Hậu
Bài chuyên đề cho đề tài của Ban Thế giới, TTXVN, năm 2016