Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng luôn vận động. Bằng vận động và thông qua vận động mà sự vật, hiện tượng tồn tại và thể hiện đặc tính của nó. Bởi vậy, vận động là thuộc tính vốn có, là phương thức tồn tại cùa sự vật và hiện tượng. Ở con người, thuộc tính đó, phương thức đó chính là hoạt động.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt dộng tuỳ theo góc độ xem xét.
Dưới góc độ triết học, hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể và khách thể. Trong quan hệ đó, chủ thể là con người, khách thể là hiện thực khách quan. Ở góc độ này, hoạt động được xem là quá trình mà trong đó có sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai cực “chủ thể - khách thể”.
Dưới góc độ sinh học, hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và bắp thịt cùa con người khi tác động vào hiện thực khách quan nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
Dưới góc độ tâm lí học, xuất phát từ quan điểm cho rằng cuộc sống của con người là chuỗi những hoạt động, giao tiếp kế tiếp nhau, đan xen vào nhau, hoạt động được hiểu là phương thức tồn tại của con người trong thế giới.
Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới và cả về phía con người (chủ thể).
Trong mối quan hệ đó có hai quá trình diễn ra đồng thời, bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau.
Như vậy, trong hoạt động, con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra tâm lí, ý thức của mình, hay nói khác đi, tâm lí, ý thức, nhân cách được bộc lộ, hình thành và phát triển trong hoạt động.
Hoạt động của con người bao gồm các quá trình con người tác động vào vật thể vật chất gọi chung là quá trình bên ngoài và quá trình tinh thần, trí tuệ - quá trình bên trong. Nghĩa là trong hoạt động bao gồm cả hành vi lẫn tâm lí, cả công việc chân tay lẫn công việc trí óc.
Cần phải nói thêm rằng, có nhiều trường hợp đối tượng của hoạt dộng không phải là một cái gì đó có sẵn, mà là cái đang xuất hiện ngay trong quá trình hoạt động. Đặc điểm này thường thấy khi con người hoạt động một cách tích cực như trong hoạt động nghiên cứu, trong hoạt động học tâp...
Chủ thể hoạt động có thể là cá nhân hoặc nhóm người. Chủ thể là nhóm người khi họ cùng nhau thực hiện hoạt động với một đối tượng, một động cơ chung. Ví dụ: Chủ thể hoạt động săn bắt là một nhóm người đi săn bởi lẽ họ cùng chung một đối tượng, một động cơ hoạt động - con mồi.
* Phân tích, mô tả cấu trúc hoạt động là một vấn đề dược nhiều nhà tâm lí học quan tâm. Người đầu tiên có tư tưởng này và đạt được những kết quá nghiên cứu nhất định là L.s. Vygotsky. Ông đã phân tích các khái niệm “công cụ”, “thao thác”, “mục đích”, “động cơ”. Tiếp tục phát triển tư tưởng và thành quả đó, nhà tâm lí học Xô viết nổi tiếng A.N. Lconchiev, trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm, lần đầu tiên đã mô tả cơ cấu chung của hoạt động vào năm 1947. Sau gần 30 năm (năm 1975), ông đã cụ thể hoá cơ cấu đó trên nhiều bình diện: hình thái, kiểu loại, thành phần, đơn vị, trình độ, cấp bậc... Có thể khái quát kết quả nghiên cứu của A.N. Leonchicv về cấu trúc vĩ mô của hoạt động như sau:
Chủ thể chỉ có thể đạt được mục dích bằng các phương tiện trong các điều kiện xác định. Mỗi phương tiện quy định một cách thức hành động. Cốt lõi của cách thức ấy chính là thao tác. Thao tác là đơn vị nhỏ nhất của hoạt động. Nó không có mục đích riêng mà thực hiện mục đích hành động, đồng thời phụ thuộc chặt chẽ vào phương tiện, điều kiện cụ thể.
Tóm lại, cấu trúc vĩ mô của hoạt động bao gồm sáu thành tố có mối quan hệ biện chứng với nhau:
Sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng, giữa đơn vị thao thác và nội dung đối tượng của hoạt động tạo ra sản phẩm của hoạt động (cả về phía khách thể, cả về phía chủ thể - “sán phẩm kép”). Có thể khái quát cấu trúc chung của hoạt động qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 3: Cấu trúc vĩ mô của hoạt động
Trong cấu trúc này, cần nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các thành tố, đặc biệt là yếu tố hành động - mục đích.
Trở thành động cơ (khi mà mục đích không chỉ có chức năng hướng dẫn mà còn có cả chức năng kích thích, thúc dẩy), lúc này hành động biến thành hoạt động;
Trở thành phương tiện (khi mà mục đích đã được thực hiện và hành động kết thúc), lúc này hành dộng trở thành thao tác và có thổ tham gia vào nhiều hành động khác.
Việc phát hiện cấu trúc của hoạt động và mối liên hệ biện chứng giữa các thành tố có ý nghĩa rất lớn:
Mặt khác, nội dung tâm lí, nhân cách học sinh có nguồn gốc từ bên ngoài, được hình thành bằng chính quá trình biến hình thức bên ngoài (nội dung đối tượng) thành hình thức bên trong. Quá trình đó chính là hoạt động của học sinh với tư cách là chủ thể của hoạt động có đối tượng. Vì vậy, trong giáo dục, dạy học phải chú trọng phát huy tĩnh chủ thể của học sinh mà đặc trưng là tính tự giác, tích cực hoạt động.
Có nhiều cách phân loại hoạt động khác nhau, dựa trên các phương diện khác nhau.
a. Xét về phương diện phát triển cá thể, có thể thấy ở con người có bốn loại hoạt động: vui chơi, học tập, lao động và hoạt động xã hội.
b. Xét về phương diện sản phẩm (vật chất hay tinh thần), có thể chia thành hai loại hoạt động lớn:
c. Xét về phương diện đối tượng hoạt dộng, có thể chia hoạt động thành bốn loại:
Tóm lại, con người có nhiều hoạt động. Mọi sự phân loại hoạt động chỉ có tính chất tương đối và các loại hoạt động của con người có quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau.
a. Khái niệm hoạt động chủ đạo
Trong tâm lí học, nhờ sự phân tích các đặc điểm lứa tuổi dể xác định dạng hoạt động chính và ý nghĩa của nó đối với sự hình thành và phát triển tâm lí, nhân cách, khái niệm “hoạt động chủ đạo” đã ra dời.
Hoạt động chủ dạo là hoạt động quyết định những hiến đổi chủ yểu nhất trong các quá trình tâm lí và trong các đặc điểm tâm lí của nhân cách con người và giai đoạn phát triển nhất định.
Hoạt động chủ đạo có ba đặc điểm cơ bản:
Tâm lí học đã phát hiện được ở mỗi giai đoạn lứa tuổi có một hoạt động chủ đạo. Ví dụ: Hoạt động chủ dạo của tuổi mẫu giáo là vui chơi..., tuổi học sinh tiểu học là học tập..., tuổi trưởng thành là lao động...
b. Sự thay đổi hoạt động chủ đạo
Thời điểm xác đinh sự thay thế từ hoạt động chủ đạo này sang hoạt dộng chủ đạo khác được đặc trưng bởi vị trí của con người trong mối quan hệ với thực tại xung quanh. Trong quá trình phát triển, đến một lúc nào dó, con người nhận thức được vị trí của mình đang chiếm giữ trong các mối quan hệ không còn phù hợp với khả năng của mình và xuất hiện nhu cầu thay đổi vị trí hiện tại. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn giữa khả năng phát triển của con người với chính mức độ phát triển mà họ đang có do hoạt động hiện thời tạo ra. Việc giải quyết mâu thuẫn ấy tất yếu dẫn đến thay thế hoạt động chủ đạo này bằng hoạt động chủ đạo khác trong các giai đoạn phát triển.
Việc đưa khái niệm hoạt động chủ đạo vào giáo dục có ý nghĩa thực tiễn to lớn: Mỗi hoạt động chủ đạo sẽ mang lại thành tựu mới, một cấu trúc tâm lí đặc trưng và chủ thể sử dụng nó như là phương tiện để thực hiện hoạt dộng của mình. Do đó, nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là tổ chức tốt quá trình hình thành các hoạt động chủ đạo của học sinh trong quá trình phát triển.
Link nội dung: https://phamkha.edu.vn/qua-trinh-xuat-tam-a51000.html